Ebook Pháp thiền Tại và Hiện
Pháp thiền Tại và Hiện
Pháp Thiền Tại và Hiện được giới thiệu giản dị và gần gũi. Cuốn sách trình bày như một tài liệu tâm lý học hiện đại.
Trong cuốn sách này, khái niệm “cái trí” ám chỉ cái trí nhận thức bình thường, tiếng Anh gọi là mind (với chữ m viết thường), không phải như chữ Trí tuệ là “Mind” (với chữ M viết hoa).
Rất tương đồng với H’oponopono, Thiền Tại và Hiện giúp đưa cái trí vào trạng thái Tĩnh Lặng – nơi cái trí được “nghỉ ngơi” trong yên tĩnh. Thiền Tại và Hiện chú tâm vào giải trừ đau khổ cho bản thân VÀ giúp mình tránh việc gây đau khổ cho người khác nữa.
Các ý niệm trong Thiền Tại và Hiện dựa trên sự thức giác về hai chân lý:
- Thứ nhất, nguồn gốc của hầu hết mọi đau khổ phiền não là chính từ sự hoạt động không bình thường của một bộ máy quan trọng và đặc biệt của con người: cái trí.
- Đau khổ sẽ mang những ý nghĩa sau:
- Tất cả những cảm xúc nào KHÔNG PHẢI là hạnh phúc, là tình yêu thương, là hoan hỉ. Ví dụ như tức giận, ganh tỵ, buồn bã, sợ hãi, đau đớn, lo lắng, cay đắng, đau thương, tiếc thương, thù oán, căm ghét, khinh bỉ, cô đơn v.v..
- Tất cả các trạng thái nào KHÔNG PHẢI là an bình, đầy đủ, hài hòa. Ví dụ như bạo lực, cần nơi người khác đáp ứng, hoang mang, hoảng loạn, bối rối, hồi hộp, trốn chạy, thiếu thốn, tuyệt vọng, lo sợ, trầm cảm v.v..
- Tất cả hành động nào KHÔNG xuất phát từ thân ái, không bao dung, hay không từ bi. Ví dụ như sự kiềm chế và áp đặt, phán xét, phê bình, nhục mạ, tấn công, ngược đãi, than phiền, cằn nhằn, hạ nhục, v.v..
- Đau khổ sẽ mang những ý nghĩa sau:
- Thứ hai, cái trí cũng chỉ là một trong những bộ phận như tim, gan, mắt, mũi.. của cơ thể con người. Nó không thể bị ngộ nhận là toàn thể cái ta được. Nghĩa là trí không phải là chính bản ngã của ta. Do vậy, ta không phải là những suy diễn hay những phản ứng của cái trí khi nó chủ động đẩy chúng ta đến những cảm xúc buồn phiền, đau đớn hay giận dữ.
Một cái trí chưa được rèn luyện sẽ có thói quen kết luận, phán đoán, nhận xét thiếu chính xác dựa trên những kiến thức, quan điểm, trải nghiệm đã tích lũy. Khi trí đang quan sát các hiện tượng và các sự việc mới, nó tìm trong ký ức, nơi mà nó đã tích trữ mọi điều từng nghe, thấy, trải nghiệm đến các thói quen, quy ước và mong muốn. Sau đó, nó khư khư áp đặt những quan niệm và giá trị cũ lên sự việc mới. Rồi nếu thế giới xung quanh không thuận theo mong đợi và sự lý giải của nó, cái trí sẽ trở nên khó chịu. Nó có thể than phiền hay thậm chí nổi giận.
Một cái trí chân thực và chính xác chỉ nhận thông tin mà không hề thêm bớt, nó trụ trong một Tĩnh Lặng không có phán xét và suy diễn. Hoặc khi cần diễn giải, suy luận thì cái trí chân thực ấy nhận thức vấn đề trong Tĩnh Lặng, đồng thời biết rằng mình đang suy luận, diễn giải và cũng tự ý thức rằng cái kết luận của mình có thể là không chính xác.
Pháp Thiền Tại và Hiện
Tại và Hiện là gì? “Tại” là “ngay tại đây.” “Hiện” là “ngay bây giờ.” Nó là kết quả của hai việc: giữ “Thân đâu, Ý đó” và sự vắng bặt của suy nghĩ trong một trạng thái thức giác cao hơn. Khái niệm này nghe lạ vì “không suy nghĩ” là trạng thái gì của cái trí vậy? Đó là khi cái trí đứng yên, không tưởng nghĩ, không tìm về quá khứ và cũng không mơ đến tương lai, hay phân tích và đi đến những kết luận sai lệch. Trí và Thân trở nên làm Một, hợp nhất thân thể ta với sự Tĩnh Lặng sâu lắng nội tại; một trạng thái vượt không gian và thời gian.
Nói một cách đơn giản, trước nhất ta tập giữ được cái trí yên lặng khi không cần dùng nó. Kế tiếp, ta giữ nó yên lặng lúc ta đang dùng nó. Rồi sau đó, ta giữ nó trong Tĩnh Lặng ngay cả khi mình đang ngủ. Đây là lúc mình đã đến được một tâm thức cao hơn.
Đặc trưng của Pháp thiền Tại và Hiện
Pháp thiền Tại và Hiện có một vài tính chất quan trọng so với các pháp thiền khác.
- Không Đấu tranh. Trong khi các phương pháp thiền khác dùng “trí” để kiềm chế chính nó, pháp thiền Tại và Hiện tránh đấu tranh với các trí. Sau khi hướng dẫn cái “trí” ngồi yên, nghỉ ngơi ở một vị trí nhất định nào đó, thiền sinh buông xả hoàn toàn: thân bất động, trí trống rỗng: không chăm chú, không theo dõi, không trói buộc hay chiêm nghiệm gì cả. Điểm không đấu tranh này là một phẩm chất làm cho phương pháp này rất hữu hiệu trong việc xử lý với cái trí ồn ào của mình.
- Tĩnh Lặng và Thức giác. Chẳng những pháp Tại và Hiện nhấn mạnh việc không đấu tranh mà còn nhấn mạnh luôn cả việc Tĩnh Lặng nên không theo dõi các nhận thức hoặc các hành động như các pháp thiền khác. Thiền quán hay các loại thiền “thức giác” đòi hỏi thiền sinh “theo dõi” hoặc “ý thức” tư tưởng, hành động hay hơi thở của họ. Pháp Tại và Hiện làm ngược lại – thay vì theo dõi cái trí hay cơ thể đang trong thể động, bạn lại lờ mờ ý thức sự Tĩnh Lặng sâu lắng của một cái trí đang ngủ yên ở một vị trí được chỉ định. Một thiền giả nhận xét: “Các pháp khác thì nhìn ra ngoài, còn Tại và Hiện thì nhìn vào trong.”
- Thời gian và Hiệu quả. Pháp Tại và Hiện đòi hỏi ít thời gian và bạn có thể đạt được sự Tĩnh Lặng sâu lắng trong thời gian rất ngắn. Nếu được thực hiện đúng theo cách hướng dẫn, chỉ vài ngày là sẽ đạt được sự Tĩnh Lặng ngay. Có người đạt được như vậy chỉ trong vài phút thôi. Trong vòng vài tuần, Thiền sinh có thể mang theo sự Tĩnh Lặng này vào đời sống thường nhật. Thời gian tuy ngắn nhưng không hề làm giảm đi sự hiệu quả của phương pháp thiền. Sự “tĩnh lặng” mà thiền sinh đạt được theo phương pháp Tại và Hiện có tính chất đổi đời.
- Đơn giản. Pháp thiền Tại và Hiện đơn giản và dễ thực thành, tốn ít thời gian, không cần có học thức cao, không tốn kém, không cần phải có người hướng dẫn. Hướng dẫn cho người khác cũng rất dễ dàng, người nào thực tập được rồi đều có thể hướng dẫn cho người khác trong chốt lát.
- Hài hòa. Phương pháp Tại và Hiện này còn có tính cách trung dung và bổ sung nên nó hài hòa với tất cả truyền thống tâm linh hoặc tôn giáo. Nó hài hòa cả với cuộc sống thế tục, không theo một đạo giáo nào. Pháp thiền giúp cho ta sự sáng suốt ở cả trí não lẫn tâm linh, khiến chúng ta được tự do theo đuổi và thậm chí còn giúp ta đi qua những con đường mà chúng ta đã chọn. Hạnh phúc vĩnh hằng là một mục tiêu chung của con người, một mục tiêu không thuộc một truyền thống riêng lẻ mà là thuộc về tất cả mọi người, ở khắp mọi nơi.
- Từ bi và Hòa bình Thế giới. Chìa khóa Tại và Hiện không những mang đến sự an lạc nội tại mà còn giúp ta phát triển lòng từ bi và tình thương yêu. Ta chỉ có thể xây dựng hòa bình thế giới sau khi chính bản thân ta đã phát triển được lòng từ bi và sự an bình nội tại.
Ba cấp độ thiền Tại và Hiện
Lý do duy nhất khi phân ra ba cấp độ là để tiện cho việc hướng dẫn và thực tập chứ không ngụ ý phân chia mức độ thành đạt tâm linh gì cả. Bạn hãy bắt đầu với Cấp Một rồi sau khi thông thạo thì hãy tập lên cấp kế tiếp. Tuy nhiên, bạn không nên cảm thấy áp lực phải tiến lên cấp khác vì nhiều người chỉ dùng Cấp Một hoặc Cấp Hai rất thoải mái và hữu hiệu mặc dù họ đã thành thạo cả ba cấp. Hãy tìm cho bạn cấp nào thoải mái là được.
Cấp Một: Nhập Vào Tĩnh Lặng
Thiền Ngồi. Mặc dù ta gọi là “thiền ngồi,” hãy nhớ rằng pháp thiền này được dùng ở bất cứ lúc nào, nơi nào và bất cứ tư thế nào. Chỉ cần làm sao cho càng thoải mái và thư giãn càng tốt.
- Bước một: Hít một hơi (qua mũi) thật sâu, chậm; khi thở ra (qua miệng), ta cảm tưởng như có một làn sóng chảy dài từ đầu xuống chân giúp toàn bộ cơ thể thư giãn. Buông lỏng hết các bắp thịt trong người. Mắt mở he hé hay nhắm, đừng chăm chú vào điểm nào cả.
- Bước hai: Thầm nhủ với “Trí” là “Thân ở đây này,” “nhận biết” rằng cái “Trí” của ta đã đến tại vị trí trái tim. Thư giãn và buông xả trí không nghĩ điều gì, không tập trung. Đặc biệt, thả hết các cơ xung quanh mắt, trán cho dù nhắm hay mở mắt. Thỉnh thoảng mơ hồ biết rằng “Trí” vẫn ở nơi trái tim.
Khi nhận thấy “Trí” bỏ đi lang thang hay suy nghĩ thì nhẹ nhàng nhắc lại “Thân ở đây này,” đưa nó về an định ở vị trí cũ, rồi lại tiếp tục buông lỏng hết toàn thân-trí ngay.
Để yên như vậy trong trạng thái không suy nghĩ, không tập trung ít nhất là 01 phút, tối đa là 30 phút. (Thiền sinh mới thì không nên thiền lâu hơn 30 phút. Sau chừng khoảng một tháng thì bạn có thể thiền lâu hơn nếu thấy thoải mái.) - Bước ba: Kết thúc thiền ngồi: từ từ hít một hơi thở sâu. Thở ra chậm, mở mắt và nhìn rõ lại bình thường, vươn vai nếu cần.
Nếu muốn chiêm nghiệm vấn đề gì hay phát triển trí tuệ thì sau khi mắt nhìn rõ lại, hãy giữ nguyên trạng thái Tĩnh Lặng đang có nhưng trí thì tỉnh thức hoàn toàn. Ta âm thầm quan sát và chiêm nghiệm các tư tưởng xuất hiện mà không phân tích hay suy luận gì cả. Thời gian bao lâu cũng được.
Thông thường, nếu chọn sự phát triển trí tuệ làm trọng tâm thiền thì nên có sự hướng dẫn trực tiếp của một bậc thầy đã thành đạt tâm linh về mặt trí tuệ. Nếu không, dễ bị lầm lẫn cái trí phàm là “Chân trí tuệ” rồi vô tình bị cái trí phàm đó gạt, ta sẽ lạc luôn trong đó.
Thiền ngủ. Đầu tiên, chúng ta bắt đầu thoát khỏi đau khổ khi vào được Tĩnh Lặng lúc thiền ngồi. Kế tiếp, chúng ta mang sự Tĩnh Lặng này vào các sinh hoạt hằng ngày.
Còn thiền ngủ, chúng ta cố gắng xử lý một phần khác của cái trí là tiềm thức của chúng ta. Để không còn đau khổ ngay cả trong giấc mơ, ta hướng dẫn cả tiềm thức lẫn cái trí tư duy suốt trong giấc ngủ vào ẩn trú nơi Tĩnh Lặng. Như thế, chúng ta sẽ thức giấc mỗi ngày trong tươi mát và an bình với chính bản thân và thế giới. Phương cách này giúp ngăn chặn cái trí tiếp tục thói quen cũ trong đêm.
Phương pháp thiền ngủ như sau: khi nào bạn cảm thấy thật buồn ngủ và sắp sửa rơi vào giấc ngủ, nói thầm với các trí tư duy và tiềm thức của mình: “Hãy ẩn trú vào cõi Tĩnh Lặng suốt thời gian ngủ này.” Sau đó buông xả mọi ý nghĩ và các cơ bắp, chìm vào một giấc ngủ bình yên.
Dấu hiệu Tĩnh Lặng khi thiền. Người hành thiền trong sự Tĩnh Lặng sâu thường có những dấu hiệu sau đây: Cơ thể không lắc lư, nghiên ngả, tay chân để yên, đầu không ngọ nguậy, cử động. Mặt người này trong có vẻ thanh thản, các cơ trên mặt không căng thẳng. Hơi thở nhẹ nhàng. Khi ở trong Tĩnh Lặng, dù ngồi thiền lâu, tay chân và lưng cũng không đau nhức. Thêm vào đó, nhận thức về thời gian và không gian có thể hơi sai lệch. Ví dụ, họ có thể ước định thời gian ngồi thiền của mình không chính xác, hay khi mở mắt ngay sau lúc thiền, họ hơi bị sai lệch về không gian xung quanh. Một điểm đặc trưng của Tĩnh Lặng nữa là thân thể cảm thấy khỏe khoắn và tinh thần an bình sau khi thiền.
Nếu muốn hiệu quả hơn, bạn có thể dùng pháp thiền Tại và Hiện thường xuyên mỗi ngày: mỗi ngày thiền ngồi ít nhất một lần từ 10 đến 30 phút và thêm tối thiểu ba lần thiền ngắn trong sinh hoạt thường nhật, mỗi lần ít nhất là 01 phút. Nếu cái trí bạn thuộc loại hiếu động, thường chạy xuôi ngược mọi nơi và mọi lúc, chúng tôi đề nghị bạn nên thiền thường xuyên và lâu hơn. Rồi khi sắp rơi vào giấc ngủ, dù ngủ trưa, tối, hay đêm thức giấc rồi ngủ lại, bạn hãy áp dụng thiền ngủ của Tại và Hiện.
Nên nhớ rằng mục tiêu chính của chúng ta là sống trong hiện tại, luôn thức giác về các tiến trình của cái trí mình, luôn kiểm soát được tư tưởng, cảm xúc, hành động, các thực trạng và duy trì được Tĩnh Lặng và bình thản trước mọi thăng trầm của cuộc đời. Vì thế, sau khi bạn đã tập được Tĩnh Lặng, cố gắng âm thầm duy trì một liên hệ thường xuyên với sự Tĩnh Lặng này suốt trong ngày. Một lần nữa, xin nhắc lại là thiền một phút thường xuyên trong ngày sẽ có lợi ích đáng kể và hữu hiệu.
Kỹ thuật thiền Cấp Hai sẽ giúp bạn vào sâu được trạng thái Tĩnh Lặng khi thiền ngồi. Nó cũng bao gồm một số cách tập để giúp bạn mang theo sự Tĩnh Lặng này vào trong đời sống hàng ngày. Khi nào đã tập thuần thục bài Cấp Một rồi hãy thực tập đến bài Cấp Hai, nghĩa là sau khi bạn đã kinh qua được sự Tĩnh Lặng theo ý muốn và có thể duy trì được trạng thái này khá lâu. Hãy nhớ: Dục Tốc Bất Đạt.
Cấp Hai: Các Cách Ứng Dụng Khác Nhau Vào Tĩnh Lặng Sâu Hơn
Dùng cách thức dưới đây nếu bạn vẫn chưa đạt được độ sâu Tĩnh Lặng như ý:
- Như ở Cấp Một, hít thở một hơi sâu và chậm, thầm bảo với “Trí” là “thân ở đây này,” vào trong Tĩnh Lặng được khoảng vài phút, giữ nguyên “Trí” ở chỗ trái tim, giữ sự Tĩnh Lặng trong toàn cơ thể, sau đó mở mắt từ từ, chầm chậm đảo mắt nhẹ nhìn xung quanh, đầu không động đậy, rồi nhắm mắt lại từ từ. Thư giãn cơ thể và chìm sâu vào Tĩnh Lặng.
- Sau vài phút, bạn có thể lặp lại việc mở và nhắm mắt như trên. Cứ mỗi lần lặp lại như vậy, ta sẽ vào sự Tĩnh Lặng sâu hơn. Chỉ nên làm tối đa 3 lần.
Sau đây là một vài phương cách để thực tập sau khi bạn đã vào Tĩnh Lặng thành thạo ở Cấp Một.
Tĩnh Lặng trong lúc cơ thể hoạt động. Sau khi đạt được sự Tĩnh Lặng, giữ yên trạng thái này, từ từ mở mắt nhìn bình thường mà vẫn biết “Trí” đang ở yên nơi tim. Tiếp theo, ta bắt đầu cử động từng phần của cơ thể một cách chậm rãi và đồng thời vẫn duy trì biết có sự Tĩnh Lặng bên trong. Khi đã quen dần, ta có thể nghe và đối đáp với mọi người mà “Trí” vẫn ngồi yên lắng nghe và không có phản ứng. Kế tiếp, ta tập đi, đứng, làm việc thường ngày mà bên trong vẫn luôn Tĩnh Lặng.
Duy trì Tĩnh Lặng nội tại khi cần ứng xử trong đời sống xã hội có lẽ là khó khăn nhất. Tuy nhiên, việc tập duy trì thành thạo lại có thể rất quan trọng. Khi chúng ta phải đối diện với những sự việc đau đớn hay con người tiêu cực, gây sự, hãy hít một hơi sâu và chậm, bảo thầm với trí là “Thân ở đây này,” thư giãn và trở vào Tĩnh Lặng từ ba mươi giây đến một phút. Cố gắng luôn ý thức sự hiện diện của Tĩnh Lặng khi tiếp nhân xử thế. Tập thường xuyên thì sẽ thấy dễ dàng thôi.
Hóa giải các cảm xúc. Khi một ý tưởng dấy lên gây cho ta cảm xúc tiêu cực: đau đớn, buồn tủi, giận dữ.. những cảm xúc mà ta không mong muốn, ta có thể hóa giải ngay bằng cách vào trong Tĩnh Lặng từ ba mươi giây đến một phút. Tập ứng phó loại cảm xúc này mỗi khi nó xuất hiện. Sau một thời gian luyện tập, bạn sẽ thấy những cảm xúc này càng lúc càng ít xuất hiện hơn.
Cấp Ba: Kết hợp Thân, Tâm, Trí, Quá Khứ và Hiện Tại
- Bài tập Cấp 1 đã hướng dẫn bạn căn bản cách dừng “Trí,” cách vào sự Tĩnh Lặng, mở lòng từ bi và cách tự chữa bệnh.
- Bài tập Cấp 2 đã hướng dẫn cách vào được trạng thái Tĩnh Lặng sâu hơn, giữ được sự Tĩnh Lặng ngay trong các hoạt động thường nhật và cách hóa giải cảm xúc tiêu cực.
- Bài tập Cấp 3 gồm một số cách phát triển tâm linh bằng pháp thiền Tại và Hiện. Hãy đọc tiếp phần này nếu bạn cảm thấy sự chuyển hóa cá nhân này phù hợp với mục đích của bạn.
Dưới đây là phần hướng dẫn cách khai mở trí tuệ, cách đạt trạng thái Tĩnh Lặng kết hợp: Thân, Tâm và Trí. Qua sự hợp nhất đó, ta làm thế nào sử dụng Tĩnh Lặng để “ăn năn, hối lỗi.” Nó sẽ giúp ta hóa giải những áp lực từ quá khứ đang là nguyên nhân gây ra đau khổ, bệnh tật.
Khai mở trí tuệ. Trong lúc thiền, thay vì đưa “Trí” về ngồi yên nơi tim thì ta mời “Trí” về vị trí nơi trên sóng mũi, giữa hai đầu khóe mắt. Sau đó thư giãn và nhập vào Tĩnh Lặng. Nếu muốn bước qua trạng thái chiêm nghiệm hoặc dùng chân trí tuệ như trong các pháp thiền khác, bạn có thể tập như sau: mở mắt hoặc nhắm mắt, đầu óc hoàn toàn tỉnh thức và giữ yên sự Tĩnh Lặng bên trong. Cần biết điều gì hay đang thắc mắc vấn đề nào, bạn đặt câu hỏi rồi để trí hoàn toàn trống không và yên lắng. Nhớ là hoàn toàn rỗng lặng, không mong chờ, không suy luận gì cả. Ý tưởng đầu tiên xuất hiện trong cái “trống không” này thường sẽ là câu trả lời hoặc giải đáp cho vấn đề của bạn. Khi bạn tập thuần thục cách này, bạn sẽ tự nhiên đạt tới kiến thức căn bản và sự minh triết mà cái trí ồn ào không thể nào đến được.
Tu dưỡng lòng từ bi. Phương pháp này giúp hợp nhất Thân, Tâm, Trí trong Tĩnh Lặng để chúng ta có thể tu dưỡng lòng từ bi cùng với việc phát triển chân trí tuệ. Khi thiền, cũng làm giống như Cấp Một và Cấp Hai nhưng ta đặt “trí” ở hai nơi: (i) trên sống mũi và nhủ rằng “thân đây này,” đồng thời (ii) đặt “trí” nơi tim và nhủ rằng “tâm ở đây này.” Giữ yên trạng thái Tĩnh Lặng và hoàn toàn không nghĩ ngợi ít nhất 30 phút.
Hóa giải nghiệp lực quá khứ. Việc thường xuyên duy trì được trạng thái Tĩnh Lặng để ngăn chặn thông tin cũ là điều rất khó khăn. Vì vậy, ta cần phải có biện pháp hóa giải các áp lực của những thông tin này. Bạn có thể dùng bước một và hai trên đây để hợp nhất Thân, Tâm, Trí hóa giải các phiền não, khổ đau của quá khứ trong cuộc đời này.
Hóa giải duyên nghiệp tiền kiếp. Nhiều người cho rằng thông tin cũ không nhất thiết chỉ là đến từ cuộc đời hiện nay mà chúng còn có thể đến từ quá khứ xa xưa của “tiền kiếp.” Chữ “quá khứ” nói ở đây là không giới hạn trong khoảng thời gian nào mà nó được xem là tất cả thời gian trước cái khoảnh khắc hiện tại. Bạn nào tin và muốn hóa giải duyên nghiệp “tiền kiếp” xin hãy theo phương pháp dưới đây.
Muốn hóa giải “lực quá khứ” của tiền kiếp, cần phải nghĩ rằng những đau khổ và phiền não như bệnh hoạn, mối quan hệ bị tổn thương v.v.. là kết quả của những gì mình đã làm lỗi từ nhiều đời kiếp trước đây. Trong trường hợp này, cần thực tâm ăn năn, sám hối những việc ấy, mặc dù mình không hề biết hoặc nhớ việc lầm lỗi đó là gì và chúng ta thầm xin lỗi những ai đã chịu đau khổ vì những việc mình đã vô tình hoặc cố ý gây ra.
Trong cuộc sống hàng ngày, đôi khi chúng ta bị ai đó làm khổ mà không có lý do gì chính đáng cả, ví dụ như kiếm cớ mắng mỏ, gây gổ, làm tổn hao tiền, của cải của chúng ta v.v.. Mình nên cho rằng ở một quá khứ nào đó, chính mình đã làm tất cả những điều ấy đối với người đó. Đồng thời, ta hãy đặt mình vào vị trí của người đó để mở lòng mình ra và cảm thông được sự đau khổ khi xưa họ đã chịu. Sau đó chìm vào trong Tĩnh Lặng và xin lỗi họ. Sau khi đã bày tỏ ý hối hận và xin lỗi như trên, ta dùng pháp thiền Tại và Hiện của Cấp Ba (vào Tĩnh Lặng bằng cách hợp nhất Thân, Tâm, Trí) ít nhất 30 phút. Sự Tĩnh Lặng càng sâu và Trí càng yên thì hiệu quả càng cao. Đây là một trong những cách hóa giải các duyên nghiệp từ quá khứ rất hữu hiệu.
Chia sẻ ý kiến của bạn