Quyển CHƠN TÂM TRỰC THUYẾT là một quyển Luận sắp vào chương trình học tại Tu Viện CHƠN KHÔNG. Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
Thiền Sư Phổ CHiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai. Với chủ trương ĐỊNH TỨC HUỆ, HUỆ TỨC ĐỊNH, Ngài làm sáng tỏ đường lối tu hành của Thiền Tông.
Thích Đắc Pháp, một Thiền sinh trong Tu Viện CHƠN KHÔNG, với thời gian ba năm tu học tại đây, đã nỗ lực hạ thủ công phu, lại tiếp tay với chúng tôi phiên dịch những tác phẩm cần thiết cho Tu Viện. Tuy nhiên, một dịch phẩm đầu tiên được ra mắt đọc giả, hẳn là không tránh khỏi một vài điểm sơ sót. Nhưng đáng khích lệ, dịch giả đã cố gắng nhiều trong công tác này.
Cần có tài liệu cho Thiền sinh tại Tu Viện học tập, cũng thiết yếu đối với hành giả không có duyên đến Tu Viện và những học giả đang nghiên cứu Thiền Tông, nên Tu Viện chúngtôi cho xuất bản quyển sách bé nhỏ này.
Quyển sách này ra đời nhằm lúc phong trào học Thiền đang lên ở Việt Nam. Chúng tôi tin rằng đọc giả có thiện chí tham cứu Thiền Tông, chịu khó đọc kỹ quyển sách này, sẽ thấy nó đóng góp một phần không nhỏ cho quí vị trong những vấn đề khó khăn nhất lâu nay chưa giải quyết được. Nhất là, những vị hiểu thiền lý mà không biết làm sao thực hiện (thiền hạnh). Quí vị chịu khó nghiền ngẫm chính chắn trong đây, tự nhiên thấy cửa thiền sẽ mở rộng, mặc tình tiến bước.
Vì thấy sự lợi ích lớn lao của quyển sách này, nên chúng tôi viết ít hàng giới thiệu cùng đọc giả.
Tu Viện Chơn Không, đầu Xuân 1973
THÍCH THANH TỪ
***
TIỂU SỬ THIỀN SƯ PHỔ CHIẾU (1158-1210)
Ngài Phổ Chiếu là bực Tôn túc của Phật Giáo và cũng là thỉ tổ Thiền Tông ở Triều Tiên vào triều Lý. Phật Giáo Triều Tiên khoảng trung diệp triều Lý có thể nói là thời đại hoàng kim. Hàng thượng lưu thì xu hướng giáo quán của Ngài Đại Giác. Dân gian thì xu hướng theo pháp “định huệ gồm tu” do sự dẫn dắt của Thiền Sư Phổ Chiếu. Hai vị này được xem là hai đại lương đống của Phật Giáo Cao Ly.
Hai quyển “Chơn Tâm Trực Thuyết” và “Tu Tâm Quyết” này chẳng qua chỉ là hai tác phẩm nhỏ do Ngài Phổ Chiếu trước tác. Tuy nhỏ nhưng rất có giá trị và được kết tập vào Đại Tạng Kinh.
Về Thiền Tông, Ngài chủ trương: “Địng tức huệ, huệ tức định”. Nhưng đặc biệt chú mục nơi “Định huệ gồm tu”.
Ngài Phổ Chiếu húy là Trí Nột, họ Trinh, hiệu Mục Ngưu Tứ. Quê Ngài ở ĐộngChâu, Kinh Tây (ngày nay là quận Thụy Hưng, Hoàng Hải Đạo). Ngài sanh vào năm thứ 17 đời vua Nghị Tông Cao Ly. Thuở nhỏ, Ngài rất nhiều bịnh hoạn. Cha là ông Quang Ngộ thường đi chùa cầu hết bịnh cho Ngài. Tám tuổi Ngài được Thiền Sư Huy thuộc Tào Khê Tông thế độ. Tuy là ở với thầy thường, nhưng chí khí Ngài cao xa vượt chúng. Hai mươi lăm tuổi Ngài được tuyển làm tăng. Rồi sau đó Ngài đi về phương Nam đến Xương Bình ở lại chùa Thanh Nguyên.
Một hôm, nơi phòng học Ngài đọc Lục Tổ Đàn Kinh ngộ được “Thể dụng của chơn như tức là định huệ”. Do đấy nên Ngài bỏ hết ý niệm danh lợi, ưa thích ở rừng núi u-nhã.
Đời vua Minh Tông năm thứ mười lăm, Ngài đi xuống vùng núi Kha Sơn ngụ tại chùa Phổ Môn để nghiên cứu Đại Tạng. Năm thứ hai mươi bảy Ngài ẩn cư tại Vô Trụ am, ở Trí Dị sơn (nay là Khánh Thượng, Nam Đạo). Nơi đây cảnh trí u tịch thật là cảnh tu thiền. Một hôm, Ngài đọc Hoa Nghiêm luận của Lý Thông Huyền, Ngài biết yếu chỉ viên đốn của giáo lý Hoa Nghiêm cùng yếu chỉ Thiền Tông quyết không trái nhau. Lại đọc Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự của Ngài Khuê Phong, cùng ngữ lục của Ngài Đại Huệ, Ngài bỗng nhiên “khế hội”. Xác chứng rằng định huệ không thể thiên phế.
Niên hiệu Thần Tông năm thứ ba, Ngài dời về chùa Kiết Tường ở Tùng Quảng Sơn, tu thiền đàm đạo mười một năm và chuyên an cư trong luật của Phật. Ngài thường khuyên người tụng Kinh Kim Cang. Ngài còn giảng Lục Tổ Đàn Kinh, Đại Huệ Ngữ Lục để phát huy tông yếu. Sau đó thiền học được hưng khởi, người tham học càng ngày càng đông. Ngài lấy “Định huệ gồm tu”, tổng hợp Hoa Nghiêm, Thiên Thai và Thiền Tông, nhưng trong ấy Ngài đặc biệt làm sáng tỏ Thiền Tông.
Ngài còn xây dựng Bạch Vân Tịnh xá và Tích Thúy Am ở núi Bảo Sơn, Khuê Phong Lan Nhã và Tổ Nguyệt Am ở Thụy Thạch Sơn làm chỗ vãng lai tu thiền. Nhà Vua rất kính trọng đức hạnh của Ngài và đổi hiệu núi Ngài ở là Tào Khê sơn Tu Thiền Xã. Lại còn tự đề bảng để ban cho. Ngài còn lập Định Huệ Xã và tuyển “Định Huệ Kiết Xã Văn”.
Vào tháng hai đời vua Hi Tông năm thứ sáu, Ngài bỗng nói với Xã Chúng rằng: “Ta còn trụ thế chẳng bao lâu nữa, các người phải nỗ lực”. Ngày 20 tháng 3 hiện có chút bịnh, đến ngày 27, Ngài mặc y hậu và vào pháp đường, chúc hương thăng tòa, vấn đáp xong, Ngài ngồi dan chơn ra bỗng nhiên thị tịch.
Nhà Vua nghe tin, ban thụy hiệu là Phật Nhật Phổ Chiếu Quốc Sư. Tháp hiệu là Cam Lộ. Ngài hưởng thọ 53 tuổi, tuổi đạo được 36 hạ. Trước tác của Ngài ngoài hai tác phẩm này còn “Khuyến tu định huệ kiết xã văn”, “Khán thoại quyết nghi luận”, “Viên đốn thành Phật luận”. Ngoài ra còn “Chú thích Đại Huệ Thiền Sư thơ”, “Phê bình Khuê Phong Thiền Sư” v.v…
TỰ
Hỏi: Diệu đạo của Tổ Sư có thể được biết không?
Đáp: Người xưa há chẳng nói: “Đạo chẳng thuộc biết cùng chẳng biết”. Biết là vọng tưởng, còn chẳng biết là vô ký. Nếu đạt đến địa vị chẳng nghi, thì rỗng suốt như thái hư, há có thể gán cho là phải quấy ư?
Hỏi: Thế thì chư Tổ ra đời không ích lợi cho quần sanh sao?
Đáp: Phật, Tổ ra đời không có một pháp cho người, chỉ cần yếu là chúng sanh phải tự thấy bản tánh của mình. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Biết tất cả pháp tức là tự tánh của tâm, sự thành tựu huệ thân chẳng do nơi khác mà ngộ”. Cho nên Phật, Tổ không khiến người mắc lầy trong văn tự, chỉ cần yếu phải thôi dứt để thấy bản tâm mình. Do đó nhập môn Đức Sơn liền bị đánh, nhập môn Lâm Tế liền nhận hét. Đã là một sự dò xét thái quá như thế, sao lại lập ngữ ngôn ư?
Hỏi: Xưa nghe Ngài Mã Minh tạo luận Khởi Tín, Lục Tổ nói Đàn Kinh, Hoàng Mai truyền Bát Nhã, đều là dùng tiệm thứ cho người, đâu không dùng phương tiện chỉ pháp ư?
Đáp: Trên đảnh núi Diệu Cao từ xưa tới nay chẳng cho thương lượng. Nhưng đầu non thứ hai, chư Tổ tóm lược dung hòa cho nói cho hiểu.
Hỏi: Xin hỏi đầu non thứ hai là lược bày phương tiện ư?
Đáp: Đúng thay lời nói này. Đạo lớn mầu nhiệm mà rộng rãi, chẳng phải có chẳng phải không. Chơn tâm u vi dứt nghĩ dứt bàn. Cho nên người chẳng từ cửa đó mà vào, tuy tìm xét năm ngàn tạng giáo cũng chẳng là người thấu suốt chơn tâm. Chỉ nói ra một lời để so sánh thì sớm trở thành pháp dư thừa. Nay chẳng tiếc mi mao (lông mày) kính viết mấy chương để phát minh chơn tâm, hầu làm căn bản lần hồi vào Đạo.
WP: Mỹ Hồ
Mời các bạn đón đọc Chơn Tâm Học Thuyết của tác giả Thiền Sư Phổ Chiếu.
Leave a Reply