Ngũ Bộ Chú là một nghi thức trì niệm của Mật Giáo gồm có 5 chú Đà La

Ni là: Tịnh Pháp Giới chân ngôn, Văn Thù Nhất Tự Hộ Thân chân ngôn, Lục Tự Đại Minh chân ngôn, Chuẩn Đề Cửu Thánh Tự chân ngôn và Nhất Tự Kim Luân Phật Đỉnh chân ngôn.

Nguyên khởi của năm Bộ Chú này thì không biết rõ, chỉ nhận biết được qua

quyển: Hiển Mật Viên Thông Thành Phật Tâm Yếu do Ngài Thích Đạo Chân ở chùa Kim Hà trên núi Ngũ Đài biên tập. Từ đấy trở đi, nghi thức này được phổ truyền trong Nhân gian; đến nay hầu như trong giáo đồ Phật Giáo Đại Thừa, ai cũng có thể thuộc lòng năm câu Chú này




Về ý nghĩa của Chú Đà La Ni thì đại đa số các Dịch Giả không chịu phiên dịch vì 5 duyên cớ:

  1. Vì tâm niệm bí mật nên không phiên dịch
  2. Vì ý nghĩa bí mật nên không phiên dịch
  3. Vì danh tự bí mật nên không phiên dịch
  4. Vì âm thanh bí mật nên không phiên dịch
  5. Vì thiện sinh bí mật nên không phiên dịch.

 

 




Lại có một số học giả dựa theo nguyên tắc Ngũ chủng bất phiên do Ngài Huyền Trang đề xuất nên không chịu phiên dịch Chú Đà La Ni, đó là:

  1. Trang trọng bất phiên (Tôn trọng sự trang nghiêm nên không phiên

dịch)

  1. Đa Hàm bất phiên (Do một chữ có rất nhiều nghĩa nên không phiên

dịch)




  1. Bí mật bất phiên (Do sự bí mật nên không phiên dịch)
  2. Thuận cổ bất phiên (Do thuận theo người xưa nên không phiên dịch)
  3. Thử phương bất phiên (Do phương này không có nghĩa thú đó nên

không phiên dịch)

Chính vì Chú Đà La Ni không được phiên dịch nên nhiều người học Phật

cho rằng Chú Đà La Ni không hề có nghĩa lý mà chỉ là một số âm vận ghép lại mà




thành. Từ đấy họ nhận định rằng những ai tu học tìm cầu đường lối giải thoát qua

phương pháp trì niệm Chú Đà La Ni đều là những kẻ mê tín dị đoan, không thể

nào nhận chân được Chính Pháp giải thoát của Đức Phật.


Chia sẻ ý kiến của bạn

Điền thông tin của bạn vào các trường bên dưới để gửi bình luận.