Tính mệnh Khuê chỉ toàn thư
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ dịch
Lời tựa 1 性命圭旨序
Ta từ lúc trẻ đã mộ đạo, và đã biết rằng trong nước có bộ TÍNH MỆNH KHUÊ CHỈ. Nghe biết từ lâu, nhưng không biết nội dung của sách đó ra sao.
Mãi đến cuối mùa Xuân năm Canh Tuất (1670), mới được hai anh Dư Nhân và Nhược Tế trao tặng cho quyển sách này. Lúc rãnh đem ra đọc mới nghỉ là các cao đệ của Doãn Chân Nhân đã viết. Nếu chẳng vậy làm sao biết được xuất xứ của sách.
Trước đây, người ta thường lấy hai tập Trung Hòa và Kim Đơn để luận về cách tu luyện của các bậc Chân Tiên. Còn các sách bản về Huyền Tông thì tuy chất đầy nhà nhưng chưa thấy có quyển nào hay bằng quyển Tinh Mệnh Khuê Chỉ. Nó chỉ cho ta thứ tự của công phu tu luyện, cùng tinh nghĩa diệu lý, sáng tỏ như ánh mặt trời. Những gì tối tăm, khó hiểu của Đơn Đạo đều được giảng giải, phơi bảy ra trước mắt. Sách này cùng với sách Long Hổ, Chu Dịch Tham Đồng Khế, Ngộ Chân Thiên cũng giống nhau. Thật đáng quí.
Học giả nếu quân thông được Tỉnh Mệnh Khuê Chỉ sẽ có thể Siêu phẩm nhập thành, trở thành Thiên nhân sư, có thể từ Sắc thân mà chứng Pháp thân, từ Sanh Sanh mà đạt Vô Sanh.
Tuy nhiên, biết được mà tu thì là Thánh nhân, biết mà không tu thì là Phàm nhân. Đó là dụng ý của hai huynh Dư Nhân và Nhược Tế. Hai huynh ngày đêm lo lắng, quyết đem ảo diệu, chân để của sách, in ra cho thiên hạ biết.
Sách này bao gồm hết yếu lý trong thiên hạ. Mong sách này sẽ diệt trừ được bảng môn tả đạo. Hai huynh nhờ tôi đề tựa sách này, nên tôi viết ít lời để đáp ứng lại.
(Tháng 3, Khang Hi năm thứ 9 (1670), nơi am Thượng Chương, Tử Trung Lý đề tựa.)
Lời tựa 2 性 命 圭 旨 序
Tinh Mệnh Khuê Chi không có tác giả. Tương truyền là của Doãn Chân Nhân cao đệ. Xưa nay rất là hiếm thấy.
Ân Duy Nhất có được một bản giữ đã mấy năm. Tảo Nhược Tế thấy sách này, yêu thích không lia tay, đem cho Châu Dư Nhân xem, thảy đều hân hoan, thưởng thức. Sách này được in khắc ra là do công lao của Tiền Vũ Chấn. Khi đã in xong, nhờ ta đề tựa. Với ta trình độ hiểu Đạo chưa đến nơi, đến chốn, làm sao dám đề lời. Tuy nhiên ta cũng có điều muốn nói.
Xưa nay Nho, Thích, Đạo vốn ở thế chân vạc, đối lập lẫn nhau, công kích lẫn nhau, chỉ duy sách này là đề cao điệu Lý của đạo gia, lại còn đem tinh ngôn, áo nghĩa của Nho, của Phật nói rõ gót đầu, lấy Trung Hòa, Hỗn Nhất mà đem dung thông, hòa hợp, chỉ rõ lý: Tận tỉnh, chỉ mệnh. Chỉ rõ chỗ Đỗng qui nhi thủ đồ của Tam giáo. Lấy 5000 chữ Đạo Đức Kinh giảng giải Đại Đạo, rất là tỉnh mật, lại lấy Chu Dịch (Nho), lấy Tứ thập Nhị Chương Kinh (Phật) mà giải, tất cả đều quan thông diệu lý, như là xẻ chuỗi ngọc châu.
Xét về Đạo giáo, nay có 96 thứ ngoại đạo, có 3.600 bảng môn. Kẻ thích tiền thì bản về thuật Luyện Kim, người ham sắc thì nói về bí quyết phòng the. Thật là tục tằn bỉ ổi, khó nói nên lời. Họ bàn về phép Đạo dẫn (dẫn khí trong người) như Hùng Kinh (gấu leo cây), Điều thân (Chim xòe cánh) để dẫn khi, điều tức, hoặc Rồng ngâm, Cọp rống. Tất cả chỉ nói chuyện xác thân, hình tướng mà không biết gì về tu luyện bản thể.
Gần đây có vị phương sĩ dạy người Phục khí, niệm quyết để khai thông Đốc Mạch trong khoảnh khắc, thoạt cười, thoạt khác, tứ chi múa may, dao động, trông rất dễ sợ, như kẻ điển cuồng, thế mà họ khoe khoang là Thần thuật. Thật đáng thương thay!
Sách này muốn quét sạch mọi điều phiền tạp, chủ yếu là dạy: Chi Hư Thủ Tĩnh, Hấp Thụ Tiên Thiên. Chỗ cao nhất là bản về Chấn Ý. Trong con người Chân Ý là Chân Thổ. Động cực thì Tĩnh. Ý mà Tỉnh thuộc Chân Âm. Gọi
là Ki Thổ.
Tĩnh cực thời động. Ý mà động thuộc Chân dương. Gọi là Mậu Thổ. Luyện Ki Thổ (chỉ Nguyên Thần) thì sẽ được khi Hống trong quẻ Ly, luyện Mậu Thổ (chỉ Nguyễn Khi) sẽ được khi Diên trong quẻ Khảm.
Diên hống quy tụ Đan Điền thì Kim đơn kết. Khi đó con người sẽ được trường sinh. Mậu Ki như vậy gồm hai chữ Thổ. Do đó đặt tên sách là Khuê chỉ. Chữ Khuê gồm 2 chữ Thổ (£).
Sách này ý nghĩa thâm sâu. Sánh với Huỳnh Đinh Kinh như là hai mặt trong ngoài.
Chu Tử đã tu sửa sách này và làm sáng tỏ nghĩa lý ra, công lao thật là lớn lao. Ân, Tào hai vị đều tinh thông y thuật dưỡng sinh. Con ta chỉ là kẻ nhiều lời. Trang Tử nói: “Kẻ biết Đạo thì không nói, kẻ nói thì không biết Đạo.” (Tri đạo giả bất ngôn, ngôn giả bất tri đạo).
(Tháng Đầu mùa Hạ, Khang Hi bát niên, năm Ki Dậu (1669) nơi nhà họ Ngô, Vưu Đồng cần tự.)
Chia sẻ ý kiến của bạn