Ebook Thiền Uyển tập anh
Soạn giả : Kim Sơn – Thiền phái Trúc Lâm
Dịch giả : Lê Mạnh Thát (Dựa trên bản in năm 1715)
Thiền uyển tập anh, sao dùng nghĩa đó? Xin thưa, dùng sự anh tú của nó làm nghĩa vậy. Sao thế?
Người theo Thiền tôn cố nhiên là nhiều, nhưng kẻ biết lẽ huyền thật ra lại hiếm: chính như một con phụng giữa bầy gà, một cây lan trong đám cỏ. Nếu chẳng phải phú bẩm anh dị, tri kiến siêu quần, làm sao thấu được ý chí huyền vi, để có thể làm lãnh tụ cho kẻ hậu học và mô thức cho người đời sau? Đáng tin thay! Trong vườn Thiền, người anh kỳ là hiếm, nhân đấy trích lấy những bậc danh công, thạc đức để làm tỏ sự tổ thuật của Thiền học.
Nên cái nghĩa của Tập anh chính do đó mà có tên. Kể từ hỗn độn bắt đầu, bấy giờ có Phật Uy Âm xuất thế, sáng làm tị tổ của Thiền tôn. Nhưng
thời ấy, tục còn thuần hậu, người nhiều chất phác, kinh giáo ở tại hư không [1b1], không cần nói ra để làm máy hóa độ. Kẻ nào lấy ma làm Phật kẻ đó trá ngụy ngày càng sinh, gian dâm ngày càng dấy, nghiệp nợ kết đầy, chướng tội thêm thẳm. Nếu chẳng dùng đến thuyền từ cứu vớt, thì chẳng thể được. Cho nên cha cả Thích Ca xuất hiện ở Ta Bà, vì họ mà nói ra kinh kệ, dạy dỗ chúng sanh, chín kiếp vượt tu, công thành quả mãn. Do thế, Phật giáo đại hành, Thiền tôn tiếp nối, như gió thổi qua sáu nẻo, để đem mát lành, tuyết rơi trên ba đường5 để dẹp nóng dữ. Bí quyết thành Phật làm Tổ, từ đó mới mở được mối manh.
Nước Đại Việt ta, lời Phật thấm nhuần khắp cả, mưa pháp sóng gội nhiều nơi, cắt tóc xuất gia, chứng ấn ngộ không thì cũng có người. Về hành tích, lòng Thiền họ sáng như mặt trời, gương đạo trong như giá băng. Có người ra đời để giúp nước an dân, có kẻ nhập thế để đỡ ngã, vớt chìm. Có người sớm ngộ ấn tâm, chống gậy làm thần diệu cơ mầu của Đạt Ma6 [2a1].
Có kẻ muộn vào cửa Thiền, chú sen 7 khiến hiển hiện bí quyết của Đồ Trừng. Còn những vị, chim rừng chuộng niềm đức, nghe kinh trong cửa, dã thú mến lòng nhân, cửa bếp dâng cơm. Đó là lòng thành cảm cách đã hiệp, chỗ học thần hóa được xong, há chẳng là sự mầu nhiệm của bốn mắt nhìn nhau ư ! Thật đã đủ để làm bậc anh tú trong vườn Thiền vậy. Ôi ! Phật đạo chí huyền, mà lòng lại huyền ở trong huyền Thiền uyển tập anh
Phật đạo rất lớn mà lòng lại lớn ở trong lớn. Lòng ư ! Lòng ư ! Nó là cái chủ tể của sự tu đạo ư ! Một sách Thiền uyển này, bắt đầu từ Thiền sư Vô Ngôn Thông truyền đạo, đèn đèn nối nhau, ánh ánh huy hoàng, song rút gọn lời dài, làm ngắn chuyện rộng thì cũng đều cái lòng ấy là Chánh giác vô thượng vậy. Xét nguyên do nó, nếu chẳng phải gột rửa sáu trần, rời bỏ bốn tướng2 mà có thể được như thế sao? Tôi ròng học sách Nho, xem [2b1] thêm kinh Phật, xét về lý hữu vô của chúng, tuy nói là hai đường, nhưng khảo về chỗ quy kỉnh thì tợ cùng một lẽ.
Nhân khi rảnh rỗi giảng dạy ở trường 3 , gặp một bạn thiền đến bàn lời Phật, đối thoại hồi lâu, là những vấn đề lông rùa sừng thỏ. Ông nhân đó lấy ra từ trong tay áo, có Tập anh một tập nhờ tôi chỉnh cú, để tiện in lại, nhằm khỏi sai lầm.
Tôi xem trong sách ấy có nhiều cao thiền, danh tổ, học tu hết sức, chứng ngộ rất thiêng bất giác ttrong lòng vừa kính vừa phục. Họ bàn không, nói giác, đấy đương nhiên không phải nằm trong phần việc của tôi.
Nhưng kinh Dịch có nói: “Trẻ nhỏ cầu ta”4 . Cho nên, tôi không thể không theo lời xin của ông để sửa lại những chữ thiếu và mất, thêm vào những chỗ sót và thoát lạc. Trong khoảng tuần nhật, lời văn nghĩa lý của sách này rõ ràng trở lại như xưa, không kém gì ánh trăng thêm sáng. Ông nhân đó xin tôi một bài tựa dùng để khắc vào đầu sách, nhằm hiển dương Phật giáo [3a1]. Tôi không tiếc công, cho gọi đứa ở đến trước mặt, bảo lấy bút giấy, chuẩn bị viết lách, rồi thảo một thiên lời quê. Ông nhân đó vái chào mà nhận. Cẩn tự.
Thiền uyển tập anh là một cuốn sách khá khó hiểu cho những người hiện đại, đọc cuốn sách này cần phải có kiến thức về văn hóa và lịch sử xưa.